Bệnh nhân tự ý rời viện - canh bạc với tử thần

Sau tai nạn giao thông, người đàn ông 49 tuổi được chẩn đoán xuất huyết não nhưng hoàn toàn tỉnh táo, nhất quyết xin về vì lo toan gánh nặng gia đình.

Ngày 12/5/2025, báo VnExpress đã đăng tải bài viết với tiêu đề: "Bệnh nhân tự ý rời viện - canh bạc với tử thần". Nội dung như sau:

Dù được khuyên giải, người đàn ông ở Hà Nội vẫn không đổi ý, cuối cùng ký giấy tự nguyện xuất viện. Tuy nhiên, chưa kịp rời đi thì cơn đau đầu ngày dữ dội ập đến do áp lực nội sọ tăng lên nhiều. Ông rơi vào hôn mê, may mắn được các bác sĩ cấp cứu kịp thời, qua cơn nguy kịch.

Đây là một trong nhiều trường hợp mà bác sĩ Đoàn Dư Mạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Tim mạch và Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa Phương Đông, chuyên gia trong lĩnh vực phẫu thuật và can thiệp mạch máu, lồng ngực từng tiếp nhận. Theo ông Mạnh, nhiều bệnh nhân chấn thương sọ não không biết rằng giai đoạn ban đầu tỉnh táo, gọi là "khoảng tỉnh", chỉ là dấu hiệu tạm thời. Khi biến chứng, tình trạng có thể khiến người bệnh hôn mê, thậm chí tử vong nếu không can thiệp kịp thời. Thời gian "khoảng tỉnh" càng ngắn, nguy cơ càng lớn, nhưng nhiều người vẫn chủ quan vì nghĩ bản thân đã bình phục.

Sự chủ quan của người bệnh xuất hiện ở mọi lứa tuổi, hoàn cảnh. Một nữ bệnh nhân 42 tuổi bị viêm phổi, sốt cao, khó thở, được bác sĩ Phan Văn Phúc, Khoa Hồi sức Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cảnh báo cần điều trị kháng sinh đủ liệu trình, song chỉ sau hai ngày hạ sốt, chị vội ký giấy xuất viện. Kết cục, bệnh tái phát nặng, người phụ nữ được đưa trở lại trong tình trạng suy hô hấp và sốc nhiễm trùng.

Không chỉ bệnh lý thể chất, nhiều bệnh nhân tâm thần cũng xin xuất viện sớm trong khi điều trị chưa đáp ứng yêu cầu. Bác sĩ Trần Thị Hồng Thu, Phó Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hương, từng tiếp nhận một cô gái trầm cảm mức độ trung bình, bỏ điều trị vì "ở viện thấy ngột ngạt". Chỉ sau một tháng, bệnh nhân trở lại trong tình trạng nặng, có ý định tự tử.

Hiện Việt Nam chưa có thống kê chính thức về số ca xin rời viện sớm, song các bác sĩ ghi nhận tình trạng này gia tăng ở các bệnh viện tuyến tỉnh hoặc trung ương, nơi thường xuyên bị quá tải điều trị. Còn trên thế giới, công trình đăng trên BMC Medicine năm 2023 cho thấy, các bệnh nhân tự ý rời viện khi điều trị chưa hoàn tất có tỷ lệ tái nhập viện và tử vong cao hơn tới 30-40% so với người tuân thủ đủ phác đồ.

Bác sĩ động viên tâm lý và giải thích bệnh tình cho người nhà bệnh nhân. Ảnh minh họa: Ngọc Thành

Một số lý do thường thấy bao gồm: rào cản kinh tế, sợ hãi bệnh viện, thiếu hiểu biết về bệnh tình, vấn đề tâm lý và tinh thần (thường gặp ở bệnh nhân mắc bệnh tâm thần) hay trách nhiệm gia đình chưa sắp xếp được.

Nhiều người không đủ khả năng chi trả viện phí dù có BHYT, sợ làm gánh nặng cho gia đình, đặc biệt khi là trụ cột thu nhập hoặc người chăm sóc chính. Nổi bật trong số này là bệnh ung thư do thời gian điều trị lâu, tốn kém, ít cơ hội sống nếu phát hiện muộn.

Lãnh đạo bệnh viện K cho biết một người điều trị thuốc đích hoặc liệu pháp miễn dịch có thể tốn 120-150 triệu đồng mỗi tháng, khoảng 500-600 triệu đồng đến vài tỷ một năm, tùy từng chỉ định và loại thuốc. Mỗi người bệnh có thể phải điều trị trong một đến hai năm. Chi phí điều trị đối với một bệnh nhân ung thư dao động trung bình tại viện này trên 176 triệu đồng một năm. Bảo hiểm chi trả khoảng 52 triệu đồng và người bệnh phải tự chi trả khoảng 124 triệu đồng, chiếm 70% tổng chi phí điều trị. Hiện, chỉ khoảng 10% bệnh nhân ung thư được tiếp cận liệu pháp này.

Có người lại nghĩ mình "không nặng đến mức đó", hoặc ngược lại, cảm thấy quá nặng, không còn khả năng cứu chữa nên xin về. Điều này cũng xuất phát từ việc thiếu hiểu biết bệnh tình, không nhận ra điều trị chưa dứt điểm có thể gây biến chứng hoặc tái phát, chủ quan bỏ giữa chừng, về chữa mẹo, thuốc nam hoặc lời khuyên từ người không chuyên.

Cùng với khó khăn kinh tế là tâm lý sợ hãi và mệt mỏi. Không ít người cảm thấy chính môi trường bệnh viện chật chội, áp lực, điều kiện sinh hoạt ngột ngạt trở thành một "liều thuốc độc" về tinh thần. Khi mỗi chiếc giường bệnh là một cuộc chiến giành sự sống, cảm giác kiệt sức về tâm lý lẫn thể xác khiến nhiều bệnh nhân chỉ mong sớm được về nhà, bất chấp cảnh báo của bác sĩ.

Bác sĩ Phúc cho rằng bệnh nhân đòi về khi chưa điều trị dứt điểm có thể trả giá bằng chính sức khỏe, thậm chí mạng sống. Đơn cử, bệnh viêm phổi có thể biến chứng thành suy hô hấp, viêm ruột thừa vỡ gây nhiễm trùng huyết, các bệnh nội khoa như tăng huyết áp, suy tim, việc ngưng điều trị hoặc không theo dõi sát sao có thể dẫn đến đột quỵ, nhồi máu cơ tim, hoặc tử vong.

Bệnh nhân phải nhập viện trở lại trong tình trạng khó cứu chữa hơn lần đầu. Đặc biệt ở những ca nặng hoặc có yếu tố tâm thần như trầm cảm nặng, ảo giác, ý định tự tử, việc ra viện khi chưa ổn định có thể dẫn đến nguy cơ tử vong cao.

Bỏ điều trị giữa chừng còn gây nhờn, kháng thuốc, hoặc khiến phác đồ sau đó phải mạnh và độc hơn. Chưa kể, mất niềm tin giữa bệnh nhân và bác sĩ sẽ khiến bệnh nhân không hợp tác điều trị ở những lần tiếp theo.

Về vấn đề tâm lý, khi người bệnh nhất quyết xin về, nhân viên y tế có thể sẽ cảm thấy bất lực hoặc đau lòng, trong khi gia đình sống trong lo lắng hoặc day dứt nếu tình trạng bệnh xấu đi, theo bà Thu.

Quá tải ở khu hồi sức tích cực viện Nhiệt đới TP HCM năm 2022 trong đợt dịch sốt xuất huyết cao điểm. Ảnh: Quỳnh Trần

Trước thực trạng này, nhiều chuyên gia cho rằng điều quan trọng nhất là cần xây dựng niềm tin và sự thấu hiểu. Việc đầu tiên là các y bác sĩ phải lắng nghe, tôn trọng suy nghĩ, hoàn cảnh của người bệnh, từ đó giải thích rõ ràng bằng ngôn ngữ dễ hiểu về nguy cơ, nguy hiểm nếu rời viện trước thời điểm an toàn. Đơn giản hóa thông tin y khoa, lấy ca bệnh thực tế minh họa có thể giúp xóa đi sự chủ quan, mơ hồ.

Song song, chính sách hỗ trợ tài chính cần tiếp cận được đúng đối tượng: đẩy mạnh quỹ trợ giúp bệnh nhân nghèo, tối ưu hóa chi trả bảo hiểm, mở rộng cơ hội tiếp cận các loại thuốc mới. Ở một khía cạnh khác, nâng cao điều kiện vật chất, cải thiện môi trường sinh hoạt, giảm bớt áp lực tâm lý – vốn là những yếu tố vô hình nhưng bào mòn sức lực bệnh nhân, cũng cần được chú trọng.

Quan trọng hơn cả là thay đổi tư duy của xã hội về việc chữa bệnh phải "đến nơi đến chốn", coi việc hoàn tất điều trị như xây móng vững chắc cho hành trình hồi phục. "Một quyết định vội vã rời viện không chỉ trả giá bằng sức khỏe, mà còn để lại những tiếc nuối không gì bù đắp nổi cho cả gia đình và đội ngũ y tế", bác sĩ Phúc cho hay.

Trước đó, báo VnEpress đã đăng tải bài viết với tiêu đề: "Từ chối điều trị, người bệnh tự rút ngắn sự sống". Cụ thể như sau:

Cách đây 3 năm, bệnh nhân phát hiện ung thư dạ dày giai đoạn sớm, được bác sĩ tư vấn phẫu thuật xử lý khối u triệt căn, cơ hội khỏi bệnh 99%. Tuy nhiên, ông từ chối vì "cảm thấy vẫn khỏe, không có biểu hiện gì", sau đó cũng không kiểm tra lại.

Năm 2022, người bệnh đi khám vì đau bụng, đồng ý phẫu thuật, nhưng không chấp nhận hóa trị vì cho rằng "đó là chất độc". Người đàn ông cũng không tái khám, dùng thuốc nam theo giới thiệu của người quen.

Đầu tháng 10, ông quay lại khám. Bác sĩ Lê Văn Thành, Khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K Trung ương, nói không thể can thiệp do khối u lan rộng. Kết quả siêu âm và xét nghiệm cho thấy bệnh đang tiến triển rất nhanh, ung thư đã di căn nhiều nơi trong gan và ổ bụng. Chất chỉ điểm u trong máu (CEA) tăng vượt quá giới hạn máy có thể đo được.

"Tiên lượng của bệnh nhân khá ngặt nghèo, việc điều trị bây giờ chỉ để vớt vát, giảm đau", bác sĩ nói, thêm rằng "đây là cái giá quá đắt". Nếu bệnh nhân chọn phẫu thuật, nhất là khi ở giai đoạn sớm thì không phải đánh đổi bằng cả tính mạng, ông Thành cho hay.

Trường hợp khác, nữ, 57 tuổi, sau nửa năm bỏ điều trị về nhà ăn thực dưỡng, trở lại Bệnh viện K trong tình trạng suy kiệt, khối u chuyển giai đoạn cuối. Bệnh nhân mắc ung thư đại tràng, đã phẫu thuật và phục hồi tốt. Bác sĩ chỉ định hóa chất để xử lý khối u, song bà từ chối.

"Không phải bệnh nhân không thể điều trị mà do bệnh nhân lựa chọn không điều trị và tự rút ngắn sự sống của mình", bác sĩ nói.

Bác sĩ Thành (ngồi giữa) đang thăm khám cho người bệnh. Ảnh: Bác sĩ cung cấp

Tỷ lệ mắc mới và tử vong của Việt Nam tăng nhiều bậc trên bản đồ ung thư GLOBOCAN thế giới. Năm 2021, tổ chức này ghi nhận Việt Nam ở vị trí thứ 90/185 quốc gia về tỷ suất mắc mới, tăng 9 bậc so với năm 2018. Về tỷ suất tử vong, Việt Nam xếp thứ 50/185, tăng 6 bậc so với ghi nhận 2018.

Mỗi năm nước ta có hơn 182.000 ca mắc mới và hơn 122.000 ca tử vong do ung thư. Bình quân cứ 100.000 người Việt có 159 ca được chẩn đoán mắc mới ung thư và 106 trường hợp tử vong. Hiện, khoảng 354.000 người sống chung với bệnh ung thư - gấp nhiều lần so với 30 năm trước.

Hiện, Việt Nam chưa có thống kê bệnh nhân bỏ điều trị, song tỷ lệ người lựa chọn uống thuốc nam, ăn thực dưỡng thay vì điều trị theo chỉ định ngày càng tăng.

Theo bác sĩ Thành, bệnh ung thư nói riêng và các bệnh khác nếu lựa chọn điều trị không đúng thì người bệnh chịu nhiều thiệt thòi nhất. Đối với ung thư, yếu tố chính tác động đến tỷ lệ chữa khỏi là việc phát hiện sớm hay muộn, tiếp đến là giai đoạn bệnh, sự đáp ứng điều trị, phối hợp của các phương pháp.

Hiện, ung thư đã có nhiều tiến bộ trong sàng lọc phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị, nhưng nhiều người đến khám ở giai đoạn muộn khiến tỷ lệ tử vong cao. Nguyên nhân có thể là khó khăn kinh tế, bất cập của hệ thống y tế, do thông tin giả tràn lan không được kiểm chứng. Bệnh nhân ung thư vẫn ám ảnh bởi quan niệm "ung thư là án tử" hay "đụng dao kéo chết sớm" nên càng dễ hoang mang, khủng hoảng tinh thần. Lợi dụng điều này, nhiều "lang băm" tìm cách lôi kéo, bán thực phẩm không rõ nguồn gốc, gây hại cho người bệnh.

Ngoài ra, nhiều loại thuốc mới điều trị ung thư giá đắt hơn 100 triệu đồng một liều, bảo hiểm y tế (BHYT) không chi trả khiến bệnh nhân khó mua được, đồng nghĩa chấp nhận mất cơ hội sống. Hay liệu pháp miễn dịch được các bác sĩ đưa vào điều trị ung thư tại Việt Nam 5 năm, đến nay chưa được đưa vào danh mục thuốc được BHYT chi trả.

"Dù vậy, trước khi bệnh nhân và người nhà ký bệnh án xin ra viện, tôi vẫn dành thời gian để thuyết phục lần cuối để đỡ cảm thấy day dứt lương tâm", bác sĩ nói.

Bác sĩ Ngô Văn Tỵ, Khoa Ung Bướu, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, cho rằng việc bệnh nhân chọn quay lưng với bác sĩ là điều trăn trở nhất khi làm nghề, "bởi hầu hết đều gặp biến chứng và bệnh nặng hơn khi quay lại". Như bệnh nhân nữ 43 tuổi bị ung thư vú, không đi viện, ở nhà nhịn ăn khiến khối u hoại tử, vỡ loét, tăng từ hai cm lên 20 cm chỉ trong hai năm. Khi nhập viện, bác sĩ cắt bỏ một bên ngực, sau đó phẫu thuật lấy da đùi ghép vào vùng da ngực tổn thương.

"Nhiều năm làm nghề, tôi thấy bệnh nhân nào uống thuốc nam, ăn thực dưỡng mà khỏi bệnh", bác sĩ nói.

Các tiến bộ y học ngày nay đã giúp nhiều người chữa khỏi hoặc kéo dài thời gian sống, tùy loại ung thư và giai đoạn bệnh. Một số loại ung thư, tỷ lệ khỏi bệnh trên 5 năm vượt 90% nếu phát hiện ở giai đoạn sớm và điều trị kịp thời, như ung thư tuyến giáp, ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư đại tràng... Hiện tại Bệnh viện K có rất nhiều bệnh nhân ung thư đã chữa trị ổn định 10 năm đến 30 năm.

Để hạn chế sai lầm trên, các bác sĩ khuyến nghị mọi người duy trì lối sống lành mạnh, người trên 40 tuổi cần tầm soát ung thư sớm. Khi phát hiện bệnh, nên điều trị theo phác đồ, tránh theo những quan niệm sai lầm và các phương pháp điều trị truyền miệng, không có căn cứ khoa học.